Tóm tắt: Bài viết đưa ra luận điểm của các thế lực thù địch cho rằng: “Đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”.

Từ quan điểm của các thế lực thù địch, bài viết đưa ra những luận cứ phủ nhận trong đó đưa ra các quan điểm, chính sách, thành tựu đạt được của Đảng, Nhà nước ta đối với dân tộc thiểu số, tập trung trên 4 thành tựu:

1.Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam

2. Các dân tộc thiểu số đã được bình đẳng về chính trị

3. Đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện

4. Văn hóa truyền thống được bảo tồn, tiếng nói, chữ viết, tôn giáo, tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số được tôn trọng

Từ khóa: Thâm độc, xảo quyệt

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch thường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng là: “Đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”(!). Đây là luận điệu hoàn toàn bịa đặt, vu khống, đi ngược lại truyền thống đạo lý dân tộc và bản chất chế độ ta thể hiện qua hệ thống luật pháp, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Bài viết dưới đây cung cấp các thông tin nhằm phản bác, phủ nhận các luận điệu tuyên truyền vu khống của các thế lực thù địch.

Như chúng ta đã biết lợi dụng: “Dân tộc”, “tôn giáo”, “Dân chủ”, “Nhân quyền” và các vấn đề khác của đời sống xã hội trong sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay là một trong những âm mưu trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, là bản chất cố hữu của kẻ gây hấn, xâm lược, bành trướng, nhằm xóa bỏ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Thời gian qua, về vấn đề dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số, các thế lực thù địch đưa ra nhiều quan điểm, trong đó có quan điểm: “Đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”. Với quan điểm này, chúng đưa ra nhiều luận cứ để nói xấu, hạ thấp, phủ nhận thành tựu của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện chính sách dân tộc nói chung, với đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng

Với luận điệu trên, thời gian qua, các thế lực thù địch rêu rao, nói xấu trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Trên lĩnh vực chính trị, chúng cho rằng đồng bào dân tộc thiểu số không có quyền tự quyết, quyền tham chính mà chỉ có người Kinh cùng (Chính quyền Hà Nội) quyết định, nên đồng bào dân tộc thiểu số phải có quyền tự quyết, có quyền tách ra thành lập một quốc gia riêng. Trên lĩnh  vực Kinh tế, do đồng bào dân tộc thiểu số trình độ thấp, không biết làm ăn, nên bị người Kinh (người Kinh có trình độ, biết làm ăn) chiếm đất, hiện nay không có đất sản xuất nên cuộc sống rất khó khăn, có nhiều hộ rất nghèo; khoảng cách giàu nghèo giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số ngày càng xa. Chúng rêu rao với người dân tộc thiểu số rằng: “ Tại sao chúng mày đều là người Việt Nam, nhưng người Kinh nó giàu thế mà chúng mày nghèo thế”[1]. Trên lĩnh vực văn hóa, chúng cho rằng văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số đang bị xâm thực, đang bị người Kinh đồng hóa để dễ bề cai trị, bởi vì do “Chính sách thực dân kiểu mới của cộng sản” hiện nay là các dân tộc ở Việt Nam sống đan xen, không sống quần cư, riêng lẻ có khu tự trị riêng như của Trung Quốc. Về an sinh xã hội đồng bào dân tộc thiểu số bị bóc lột, o ép không được giáo dục, không được tiếp cận các dịch vụ: Điện, đường, Trường, Trạm.v.v…

Tuy nhiên không phải như vậy, nhận thức được được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác dân tộc, Đảng, Nhà nước Việt Nam thường xuyên đổi mới, không ngừng nâng cao nhận thức và thực hiện về quan điểm, chính sách đối với công tác dân tộc nói chung, dân tộc thiểu số nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, xin được đưa ra một số thành tựu nổi bật sau đây:

1. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Ngay sau khi giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác dân tộc, chính sách dân tộc và tình cảm với đồng bào các dân tộc, thể hiện tư tưởng chỉ đạo về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số Nam Bộ năm 1946, Người viết “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là an hem ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”[2]

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân tộc, chính sách dân tộc được ghi trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về công tác dân tộc, với 5 quan điểm cơ bản như sau:

Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.

Quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là: vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc”. Mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là: các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

 Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.

Qua các giai đoạn lịch sử, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, nguyên tắc trong đường lối, chính sách dân tộc, đó là xây dựng khối đoàn kết, bình đẳng giữa cộng đồng các tộc người, phát triển toàn diện về kinh tế- chính trị- xã hội, bảo đảm các quyền và tiếp cận các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”

Phát triển toàn diện chính trị,  kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh- quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, quốc phòng- an ninh

Về chính trị, mở rộng, phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng tham kiến về chính trị đối với đồng bào các dân tộc thiểu số.

Về kinh tế, quy hoạch lại các điểm dân cư phân tán tại địa bàn Miền núi, đồng bào dân tộc. Nghiên cứu cơ chế quản lý liên kết hợp tác phát triển vùng phù hợp, tạo điều kiện phát triển các khu vực, địa bàn còn nhiều khó khăn, nhất là miền núi, biên giới hải đảo, Tây bắc, Tây nguyên, Tây Nam bộ và  phía tây các tỉnh miền trung.

Về văn hoá - xã hội, quan tâm phát triển giáo dục dạy nghề trong đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn. Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở y tế, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo. Tăng cường nhân lực y tế cho khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo. Phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của các dân tộc. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Kịp thời di dời đồng bào ra khỏi khu vực sạt lở, lũ lụt. Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng bền vững, nhất là rừng phòng hộ, ven biển, rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giữ gìn và phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp của làng quê Việt Nam.

Về quốc phòng - An ninh, kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trong các khu vực phòng thủ, phải bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh nhất là ở những vị trí trọng yếu, chiến lược. Xây dựng đường tuần tra biên giới. Nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế- quốc phòng và phát triển bền vững kinh tế- xã hội khu vực dọc biên giới và biển đảo.

Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế, xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo.

Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế, xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, tín dụng ưu đãi và huy động các nguồn lực ngoài nhà nước để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế- xã hội. Đẩy mạnh tạo nghề với các hình thức đa dạng, phù hợp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn, miền núi. Tập trung giải quyết tình trạng du canh, du cư, di dân tự do. Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái. Phát huy nội lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước. Phát huy nội lực, tự lực, tự cường của đồng bào.

Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đảng ra chủ trương, Nhà nước xác định chính sách và tổ chức thực hiện,các tổ chức đoàn thể tham mưu tổ chức thực hiện.

Để thể chế hóa các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp, các bộ luật thể hiện nội dung về chính sách dân tộc. Trong Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã thể hiện rõ chính sách đại đoàn kết, quyền bình đẳng của mọi công dân, không phân biệt đối xử với bất kỳ dân tộc nào: “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện, để chóng tiến kịp trình độ chung”[3]

Hiến pháp năm 1992 của nước ta một lần nữa khẳng định rõ chính sách đoàn kết, không phân biệt và giúp nhau giữa các dân tộc “Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc…Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”[4]

Cụ thể hóa các điều quy định trong hiến pháp, Quốc hội đã ban hành nhiều luật liên quan đến quyền lợi các dân tộc thiểu số như: Luật giáo dục, Luật bảo hiểm y tế, Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật người cao tuổi, Luật người khuyết tật, Luật bình đẳng giới, Luật hôn nhân và gia đình...

Nhằm cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, thực hiện chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội cho đồng bào các dân tộc. Kể từ khi đổi mới đến nay, chính phủ đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dân tộc khá đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực và phủ kín các địa bàn vùng dân tộc, miền núi. Chỉ tính từ năm 2010- 2015, ngoài những văn bản do quốc hội ban hành, trong đó có những nội dung liên quan đến dận tộc thiểu số, Chính phủ đã ban hành 154 chính sách dân tộc được thể hiện tại 177 văn bản, 37 nghị định và nghị quyết của Chính phủ, 140 quyết định của Thủ tướng chính phủ. (Ủy ban dân tộc: Báo cáo tại hội thảo “Đề xuất các chính sách dân tộc giai đoạn 2016-2020” Tháng 9/2015). Mặc dù số lượng văn bản rất lớn, bao gồm những văn bản chỉ điều chỉnh và áp dụng riêng đối với các dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số và cả những văn bản áp dụng chung đối với mọi đối tượng, trong đó có quy định riêng về việc áp dụng đối với dân tộc thiểu số nhưng trong hệ thống văn bản đó, các nguyên tắc cơ bản xác định quyền bình đẳng giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo quan điểm của Đảng được thể hiện khá đầy đủ. Cùng với tính toàn diện, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dân tộc còn thể hiện tính kịp thời, tính liên kết, tính minh bạch. Ở mỗi lĩnh vực đều có văn bản pháp luật cụ thể khác nhau, một số văn bản (chủ yếu là văn bản dưới luật) có nội dung quy định cụ thể các chế độ, chính sách áp dụng đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào dân tộc thiểu số được sửa đổi, bổ sung thường xuyên nhằm phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tình hình thực hiện chính sách dân tộc đối với các vùng, miền hoặc các đối tượng cụ thể. Cơ chế chính sách đã từng bước thay đổi về quan điểm, tư duy khi thực hiện phân cấp cho địa phương trên cơ sở công khai, minh bạch từ công tác xây dựng, lạp kế hoạch dến tổ chức thực hiện.

Đối với các địa phương, theo quy trình triển khai văn bản cũng như căn cứ trách nhiệm được quy định, sau khi văn bản quy phạm pháp luật và chỉ đạo điều hành ở cấp trung ương có hiệu lực, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã ban hành hoặc chỉ đạo  cơ quan chuyên môn cấp tỉnh ban hành văn bản để thực hiện các nội dung, quy định, nhiệm vụ về công tác dân tộc trên địa bàn quản lý của mình. Đối với văn bản luật, nghị định, thông tư, ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố thường thông qua hình thức tuyên truyền, phổ biến để triển khai đến nhân dân và áp dụng những quy định luật pháp để điều chỉnh, thống nhất hệ thống quy tắc xử sự chung của các cơ quan, tổ chức và nhân dân. Đối với các văn bản chỉ đạo, điều hành, căn cứ vào nội dung, các địa phương sẽ xây dựng văn bả triển khai các nhiệm vụ thuộc trách nhiệm được giao hoặc tổ chức thực hiện. Mặc dù trong bối cảnh các nền kinh tế thế giới suy thoái, tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó khan, nhưng trong giai đoạn 2011- 2015 ngân sách nhà nước đầu tư khoảng 135.000 tỷ đồng (tăng gấp 3 lần so với 5 năm trước[5], trong đó, 9 chính sách do ủy ban dân tộc quản lý quản lý được cấp 27.000 tỷ đồng[6], giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số, tốc độ tang bình quân 26%/Năm

2. Các dân tộc thiểu số đã được bình đẳng về chính trị

Các dân tộc luôn được bảo đảm quyền bình đẳng trên các lĩnh vực, quyền bình đẳng về chính trị của đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được nâng cao. Trong những năm qua, số lượng đại biểu là người dân tộc thiểu số trong các khoá quốc hội luôn chiếm tỷ lệ cao hơn so với người dân tộc thiểu số của cả nước. Ở địa phương, người dân tộc thiểu số cũng chiếm tỷ lệ cao hơn trong tham gia hội đồng nhân dân. Nhiều người dân tộc thiểu số đã và đang giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan lãnh đạo, các cơ quan quyền lực của đất nước. Ví dụ: Quốc hội Khóa 14 có 86 đại biểu quốc hội là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 17,4%; 49/53 dân tộc thiểu số có đại biểu trong Quốc hội; Đại biểu trong hội đồng nhân dân các cấp khoảng 20%. Nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước là người dân tộc thiểu số như Tổng bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, ban bí thư, ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng, Bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh...

3. Đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện

Nhờ đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bộ mặt vùng dân tộc và miền núi nước ta đã thay đổi rõ rệt.

Kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng, từng bước hoàn thiện đã làm thay đổi cơ bản diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Hiện nay có 98,6% số xã có đường ô tô đến trụ sở ủy ban nhân dân xã; 99,8% số xã và 95,5% số  thôn có điện lưới quốc gia; 99,5% số xã có trường tiểu học, 93,2% số xã có trường trung học cơ sở, 12,9% số xã có trường trung học phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo, mầm non; 99,39 % số xã có trạm y tế, 77,8% xã đạt chuẩn quốc  gia về y tế

Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cải thiện

Về phát triển kinh tế, đã hình thành các vùng cây công nghiệp: Cà phê, chè, cao su, hạt tiêu, điều,…; các vùng cây ăn quả như: Cam (Hòa Bình, Hà Giang), vải thiều (Bắc Giang), nhãn (Sông Mã, Sơn La),…;Công nghiệp khai khoáng: Than (Quảng Ninh), Apatit (Lào Cai), Đồng (Lào Cai), Thiếc (Cao Bằng), Bô xit (Tây Nguyên),…;Thủy điện: Sơn La, Hòa Bình, Lai Châu,…

Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay. Chính phủ tập trung chỉ đạo đầu tư và nguồn lực thực hiện chính sách giảm nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, chăm lo cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào các dân tộc. Những năm vừa qua, thu nhập bình quân các vùng dân tộc tăng nhanh: Tây Nguyên tăng 1,5 lần; Đông Bắc bộ 1,4 lần; Tây Bắc 1,3 lần. Tỷ lệ giảm nghèo các tỉnh Đông Bắc 3,62%, Tây Bắc 4,4%, Tây Nguyên 3,04%; trong dân tộc thiểu số 3,55%/năm (bình quân cả nước là 1,83%). Khoảng cách nghèo trong dân tộc thiểu số giảm từ 24,3% xuống còn 19,2%. Mức độ trầm trọng của hộ nghèo giảm từ 11,3% xuống còn 8,2%. Qua khỏa sát 98,6% ý kiến của cán bộ cơ sở và người dân đánh giá đời sống đồng bào dân tộc thiểu số khá hơn, được dư luận trong nước, quốc tế đánh giá cao. Về Giáo dục và đào tạo, hiện nay có- 300 trường phổ thông dân tộc nội trú,  với 88 ngàn học sinh theo học; 876 trường phổ thông dân tộc bán trú, với 140 ngàn học sinh theo học; 782 trường, 124 ngàn học sinh học tiếng dân tộc thiểu số. 5 năm qua (2011- 2016), vùng dân tộc cử tuyển 18 ngàn sinh viên dân tộc thiểu số vào học các trường cao đẳng, đại học. Đến nay, đã hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Về y tế, nhờ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế  và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho toàn bộ người nghèo, người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng khó khăn, một số dịch bệnh trước đây phổ biến ở vùng dân tộc như sốt rét, bướu cổ, phong, lao được ngăn chặn và đẩy lùi. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 25%.

 4. Văn hóa truyền thống được bảo tồn, tiếng nói, chữ viết, tôn giáo tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số được tôn trọng

Trái với luận điệu của các thế lực thù địch là “các dân tộc thiểu số đang bị đồng hóa, phân biệt đối xử vì khác biệt văn hóa...”. Thực tế Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng đến các công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc. Ngày 14/1/2011, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc, trong đó quy định: “hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam; hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc có chữ viết. Các dân tộc thiểu số có trách nhiệm giữ gìn văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình phù hợp với quy định của pháp luật; xây dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn, bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng; đồng bào dân tộc thiểu số được ưu đãi, hưởng thụ văn hóa; hỗ trợ xây dựng, khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; bảo tồn phát huy các lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc, định kỳ tổ chức ngày hội văn hóa – thể thao dân tộc theo từng khu vực hoặc từng dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số[7]

Ngày 27-7-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1270/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” với nội dung tập trung ưu tiên bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người. Nhờ các chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, văn hóa truyền thống của các dân tộc được tôn vinh, từng bước được bảo tồn, đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện, mức hưởng thụ văn hóa được nâng cao. Các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số như: Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên , Thánh địa Mỹ Sơn, Cao nguyên đá Đồng Văn...được bảo tồn, tôn vinh, được công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Năm 2011, Chính phủ và các địa phương đã tỏ chức trình diễn trang phục của 54 dân tộc Việt Nam. Theo thống kê, đồng bào các dân tộc thiểu số được thụ hưởng đời sống văn hóa mới: 91,5% số xã có hệ thống loa truyền thanh; 92% người dân được nghe đài phát thanh, 85% người dân được xem truyền hình, nhiều chương trình phát bằng tiếng dân tộc thiểu số như: Mông, Thái, Ê Đê, Chăm, Khmer[8]

Chính phủ thực hiện chương trình cấp miễn phí 19 loại báo, tạp chí đến tận thôn, bản, ấp vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam không ngừng mở rộng diện phủ sóng rộng khắp trong cả nước tới các khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Trên 90% hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nghe đài Tiếng nói Việt Nam và trên 80% số hộ được xem truyền hình. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các đài phát thanh, truyền hình địa phương đều có các chương trình bằng tiếng dân tộc, phát bằng 26 ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Số lượng các chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số tăng liên tục theo thời gian từ mức mỗi tuần 335 chương trình năm 2005 lên đến 362 chương trình, tổng thời lượng phát sóng cũng tăng lên, bảo đảm cho người dân tộc thiểu số sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa có điều kiện tiếp cận với thông tin trong nước và quốc tế.

Chính phủ Việt nam tạo mọi điều kiện để người dân, trong đó có người dân tộc thiểu số tiếp cận, khai thác và sử dụng rộng rãi thông tin trên mạng Internet đã hình thành cung cấp dịch vụ đến từng xã, thôn, bản cho 63 tỉnh, thành phố, kể cả vùng sâu, vùng xa.

Quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số được tôn trọng. Nhà nước có nhiều chính sách bảo tồn, sử dụng và phát triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Chính phủ đã xây dựng chữ viết cho các dân tộc thiểu số. Sau quá trình thực hiện, tổng kết, Chính phủ đã ban hành nghị định số 82/NĐ-CP quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn giáo trình dạy 12 thứ tiếng dân tộc thiểu số; cả nước có hơn 30 tỉnh, hơn 600 trường tổ chức dạy, với trên 200000 học sinh đang theo học tiếng dân tộc[9] 10 ngôn ngữ dân tộc được đưa lên sóng phát thanh - truyền hình[10]

Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số: Hiến pháp năm 2013 của nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật”[11]

Nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng, không phân biệt đối xử giữa những người theo tôn giáo và những người không theo tôn giáo, giữa các tôn giáo khác nhau, giữa những người dân tộc thiểu số theo tôn giáo và người Kinh theo tôn giáo. Thời gian gần đây, do nhiều nguyên nhân, một số tôn giáo phục hồi và phát triển nóng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Điển hình là việc đạo Tin Lành phục hồi và phát triển mới với tốc độ rất nhanh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Nam Trường Sơn và các tỉnh lân cận.

Theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2015 số người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và vùng cao duyên hải miền Trung theo đạo Tin Lành là hơn 550 nghìn người với 1.732 điểm nhóm theo buôn. Ngoài ra, ở khu vực Tây Nguyên còn có 350.000 người dân tộc thiểu số theo Công giáo, 20.000 người dân tộc thiểu số theo Phật giáo và 1.000 người theo đạo Cao Đài,...

Đặc biệt ở các tỉnh miền núi phía Bắc, năm 2015 số người H’mông theo đạo Tin Lành là hơn 240 nghìn người với 1.200 điểm nhóm ở 14 tỉnh. Ngoài hai khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc, ở Tây Nam Bộ có gần 1,3 triệu người Khmer theo Phật giáo Nam tông. Như vậy, số lượng tín đồ trong đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam theo tôn giáo là 2,2 triệu người, trong đó: Phật giáo Nam tông: 1,3 triệu, Tin Lành: 780.000, Công giáo: 420.000, Phật giáo: 35.000,... chiếm khoảng hơn 23% số người dân tộc thiểu số, tương đương với số tín đồ tôn giáo so với tỷ lệ dân số của Việt Nam (22,0 triệu tín đồ trong tổng dân số 90,0 triệu).

Vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số được Đảng và Nhà nước rất quan tâm trên cả hai phương diện dân tộc và tôn giáo. Do đó, cơ bản, tình hình tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số hoạt động theo xu hướng ổn định, tuân thủ pháp luật.

Tóm lại, do cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, xuất phát điểm thấp và những khó khăn do lịch sử để lại, nên trình độ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thấp, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta còn nhiều khó khan. Để giúp các dân tộc thiểu số cùng phát triển, Nhà nước ta xác định chính sách dân tộc nhất quán là: các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển. Nhờ thực hiện chính sách đúng đắn của Nhà nước, trên thực tế các dân tộc thiểu số ở nước ta đã được bình đẳng về chính trị, đời sống được cải thiện, văn hóa truyền thống được bảo tồn, chữ viết, tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào được tôn trọng, các quyền của công dân ngày càng được bảo đảm. Những kết quả trong thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội đối với các dân tộc của Chính phủ Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá cao là những minh chứng hung hồn phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, vu khống về cái gọi là “đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”(!) của các thế lực thù địch./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo ban Tôn giáo Chính phủ năm 2016

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2003, tr.30.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t1, tr.70.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011,tr.4,tr.294

5. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, năm 1946 (Điều 8 in trong cuốn Tuyên ngôn độc lập và các bản Hiến pháp Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012).

6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (Điều 5,Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012).

7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Lý luận dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam.Nxb.Lý luận chính trị, H.2021

[1] Báo cáo ban Tôn giáo Chính phủ năm 2016

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011,tr.4,tr.294

[3] Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, năm 1946 (Điều 8 in trong cuốn Tuyên ngôn độc lập và các bản Hiến pháp Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012).

[4] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (Điều 5,Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2012).

[5],2 Ủy ban dân tộc: Báo cáo đánh giá và triển khai chính sách vùng dân tộc, năm 2016.

[7] Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngyaf 14-1-2011 của Chính phủ

[8] Ủy ban dân tộc: Báo cáo đánh giá và triển khai chính sách vùng dân tộc và miền núi, năm 2018.

[9] Báo cáo thực hiện chính sách dân tọc của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2012

[10] Báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, năm 2012.

[11] Điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2014.