Học thuyết Mác - Lênin kế thừa, phát triển tinh hoa trí tuệ nhân loại; là một hệ thống mở, luôn vận động, phát triển không ngừng

Học thuyết Mác - Lênin kế thừa, phát triển những thành tựu cao nhất của tư tưởng nhân loại, của khoa học tự nhiên hiện đại và thực tiễn xã hội loài người. Học thuyết Mác - Lênin kế thừa, phát triển Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị Anh; Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp; Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ nói chung và các cuộc cách mạng công nghiệp lần 1,2,3. Cuộc cách mạng công nghiệp thứ nhất năm 1784 sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hoá sản xuất, Cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 năm 1870 sử dụng năng lượng điện để tạo nên nền sản xuất quy mô lớn, đặc biệt là 3 phát minh “vạch thời đại” trong thế kỷ XIX: Định luật bảo toàn năng lượng của Lomoloxop, Học thuyết Tế bào của Slayden và Học thuyết Tiến hóa của ĐacUyn. Ba phát minh này làm bộc lộ rõ tính hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. Thành tựu phát triển của KHKT cuối thế kỷ XIX, đầu XX, đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý. Ngày nay, một cuộc Cách mạng Công nghiệp thứ 4 đang được hình thành trên nền tảng của cuộc cách mạng thứ 3, đó là cuộc cách mạng số, đã bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ XX. Cuộc cách mạng này là một loạt công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học... Nó đang đặt ra đòi hỏi Học thuyết Mác - Lênin phải phát triển.

 Thực tiễn lịch sử cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, sự phát triển của các Hình thái kinh tế - xã hội từ Cộng sản nguyên thủy đến Chủ nghĩa xã hội; đặc biệt là cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới chủ nghĩa tư bản. Sự ra đời của của Nhà nước Xô viết (1917) và các nước xã hội chủ nghĩa đã chứng minh cho tính hiện thực của lý luận chủ nghĩa xã hội. Chính sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu đã minh chứng về sự dập khuôn, máy móc, xa rời những nguyên lý, “nền móng” cách mạng và khoa học của Mác, Ăng ghen, Lê nin. Sự cải cách, đổi mới, phát triển chủ nghĩa xã hội hiện nay đã, đang chứng minh cho tính cách mạng, khoa học và hiện thực của chủ nghĩa xã hội.

Học thuyết Mác - Lênin không phải đã “xong xuôi hẳn” và “bất khả xâm phạm”, mà phải “đẩy” nó lên, phát triển nó phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Mác, Ăngghen khẳng định Triết học, Kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hộiKH macxit không dừng lại và không khuất phục trước bất cứ một thế lực nào, nó luôn vận động, phát triển, luôn đấu tranh phê phán các quan điểm siêu hình, duy tâm, tự phê phán chính mình và cách mạng không ngừng. “Phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng” [4]. Bản thân C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đã không chỉ một lần dũng cảm phê phán một vài luận điểm trước đây của mình một cách thẳng thắn, chân thành. Sự phản tỉnh, tự phê của các nhà kinh điển đã thể hiện tinh thần khách quan, tính khoa học đáng quý, đồng thời cũng bảo vệ tính chân lý của chỉnh thể hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.

Mác cũng đã từng nói rằng, không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành. Đáng tiếc đã có những ý nghĩ muốn đẩy nhanh “cái chết” của chủ nghĩa tư bản nên đã không nhận thấy rằng Mác đã nói về sự biến đổi của chủ nghĩa tư bản.

 V.I.Lênin khẳng định lý luận của Mác- Ăng ghen không phải đã hoàn bị, mà nó cần phải tiếp tục bổ sung, phát triển trong điều kiện mới trên cơ sở nền móng cách mạng, khoa học mà Mác, Ăng ghen đã đặt ra. Lê nin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng của môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” [5].

 Lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa tư bản và xã hội xã hội chủ nghĩa phải được đặt trong sự biến đổi và phát triển không ngừng. Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản đầu tiên tập I của bộ Tư bản, Mác đã nhận ra rằng, xã hội tư bản hoàn toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể có khả năng biến đổi và luôn luôn ở trong quá trình biến đổi. Sự điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại đã chứng minh cho lý luận của chủ nghĩa Mác. Không có chủ nghĩa xã hội chung chung, trừu tượng, mà chủ nghĩa xã hội phải dựa trên mảnh đất hiện thực, được thể hiện sinh động cụ thể trong từng quốc gia dân tộc, phát triển từng bước. Ăng-ghen đã nhấn mạnh rằng, cái mà người ta gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa không phải là một xã hội hoàn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên

Những tác phẩm của V.I. Lênin dưới nhan đề “Di huấn chính trị”, đã thừa nhận toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản khi thực tiễn thay đổi. Theo đó, “chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó (con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội) và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó, còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”; “tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống”[6]. Đối với các Đảng cộng sản ở Phương Đông, Người chỉ rõ, “trong khi dựa vào lý luận chung và thực tiễn chủ nghĩa cộng sản, các đồng chí vừa phải thích ứng với những điều kiện riêng biệt mà các nước Châu Âu không có, vừa phải học cách vận dụng lý luận và thực tiễn ấy vào nơi quần chúng chủ yếu là nông dân, nơi cần phải xác định sự cần thiết không phải là đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, mà là đấu tranh chống những tàn tích phong kiến” [7].

Học thuyết Mác - Lênin mang tính phổ biến, phổ quát, là thế giới quan, phương pháp luận cách mạng, khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ

          Học thuyết Mác- Lênin phản ánh bao quát cả tự nhiên, xã hội và tư duy; ở tất cả các chế độ xã hội; trong mọi giai đoạn lịch sử. Chỉ ra các quy luật cơ bản vận động, phát triển của xã hội, đó là: Sản xuất vật chất (kinh tế) vẫn là nền tảng của đời sống xã hội; Nhân tố quyết định lịch sử, xét đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội; Nguồn gốc và động lực phát triển xã hội là nhu cầu, lợi ích của con người (giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại), là sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội; Sự phát triển của xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác là quá trình lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí của con người, giai cấp, quốc gia dân tộc và nhân loại.

 Các quy luật, phạm trù của Học thuyết Mác - Lênin trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho hoạt động của con người và nhân loại tiến bộ. Nó trở thành “vũ khí tinh thần”, “lý luận soi đường”... cho quần chúng lao động và giai cấp công nhân trong đời sống, mà trước hết là giải phóng cho mình khỏi ách áp bức của chủ nghĩa tư bản. Hội thảo tháng 5.2018 về giá trị Học thuyết Mác đã khẳng định: Học thuyết do Mác và Ăngghen sáng lập là ngọn đèn pha soi sáng con đường cách mạng cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác và sau này là chủ nghĩa Mác-Lênin đã chấm dứt thời kỳ "mò mẫm như trong đêm tối" của hàng triệu nhân dân lao động sống dưới ách áp bức và bóc lột, tìm đường giải phóng cho mình.

Với tư cách là thế giới quan và phương pháp luận của hoạt động người, Học thuyết Mác- Lênin giúp nhân loại giải quyết hàng loạt các vấn đề về chiến lược, sách lược trong cai tạo tự nhiên, xã hội, phát triển tư duy. Góp phần định hướng đúng đắn hoạt động của mình trước những biến động của thế giới; đồng thời đặt ra những đòi hỏi mới cho việc tiếp tục nghiên cứu khái quát và bổ sung, phát triển Học thuyết Mác - Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lênin Vạch ra mục đích, bản chất, quy luật vận động, phát triển, những mâu thuẫn và khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản mà tự nó không giải quyết được.

Những năm gần đây, ở ngay các nước tư bản phương Tây, nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà triết học và kinh tế chính trị học vẫn tiếp tục nghiên cứu học thuyết của Mác và công bố những công trình quan trọng.

Trong cuốn sách “Tại sao Mác đúng?”, tác giả Terry Eagleton khẳng định: Mác là người đầu tiên nhận biết được một cách khoa học về chủ nghĩa Tư bản, chứng minh nó xuất hiện, hoạt động theo quy luật nào và có thể đi đến chỗ kết thúc ra sao. Mục đích của chủ nghĩa tư bản là sản xuất giá trị thặng dư. Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích của phương thức sản xuất TBCN. Giá trị sử dụng hàng hóa cũng nhằm đạt tới làm cho giá trị thặng dư ngày càng cao. Bản chất kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư. Những bí mật làm giàu của các nhà tư bản và sự bần cùng của người lao động cũng đã từng là một bí mật của lịch sử đã được Mác khám phá ra nhờ học thuyết về giá trị thặng dư. Mác viết: Đối với nhà tư bản nếu tỷ suất lợi nhuận P’=100% thì đầu tư khắp nơi, nếu P’=200% thì sẽ bất chấp cả pháp luật và còn nếu P’=300% thì treo cổ nhà tư bản vẫn cứ làm. Do đó, tỷ suất lợi nhuận không chỉ là mục tiêu theo đuổi mà còn là động lực của sự cạnh tranh, là sự thèm khát vô hạn của nhà tư bản.

Quy luật giá trị thặng dư là là quy luật tuyệt đối của phương thức sản tư bản chủ nghĩa. V.I. Lê nin đánh giá: Việc phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư là công lao lịch sử vĩ đại nhất lao động của Mác. Nó chiếu sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước kia những nhà xã hội chủ nghĩa cũng mò mẫm trong bóng tối không kém gì những nhà kinh tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày có giải đáp đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học. Giăccơ Đêrriđa cho rằng, trong vòng 200 năm nữa không ai vượt được C. Mác về giải phẫu chủ nghĩa Tư bản. Terry Eagleton trong cuốn sách “Vì sao Mác đúng” đã cho rằng, chủ nghĩa Mác giống như bác sĩ, khi mà cơ thể khoẻ thì sẽ không để ý, song một khi chủ nghĩa tư bản gặp vấn đề nghiêm trọng thì chủ nghĩa Mác lại phát huy tác dụng phê phán vốn có của mình.

Bộ “Tư bản” được xem là bộ sách lớn nhất về “kinh tế thị trường” với hàng loạt các nguyên lý, quy luật được đề cập: Sản xuất hàng hóa; Bóc lột lao động; Thị trường; Quy luật giá trị; Quy luật cung- cầu; Quy luật cạnh tranh; Vốn, tín dụng, lưu thông tiền tệ; Khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp; Xuất khẩu tư bản; Độc quyền, xuyên quốc gia, toàn cầu hóa… Các quy luật này đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và nhân loại đã, đang, sẽ tiếp tục minh chứng cho các quy luật quan trọng này.

Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì những khuyết tật, mâu thuẫn, xung đột cố hữu của nó thêm trầm trọng, mà bản thân nó không thể giải quyết được căn bản để tạo bước nhảy, tạo ra chất mới. Mâu thuẫn cố hữu, gay gắt nhất là giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tư hữu, tư nhân về tư liệu sản xuất.  Mác cho rằng, những quan hệ sản xuất và trao đổi tư sản của nó, với những quan hệ tư sản đã tạo ra những tư liệu sản xuất và trao đổi hết sức mạnh mẽ như thế, thì giờ đây, giống như một tay phù thủy không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên... Những lực lượng sản xuất mà xã hội sẵn có không thúc đẩy sở hữu tư sản phát triển nữa, trái lại chúng trở thành quá mạnh đối với các quan hệ sở hữu ấy..., các quan hệ sở hữu đang cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất.., trở thành quá chật hẹp, không đủ sức chứa đựng những của cải đã tạo ra trong lòng nó nữa. Các biện pháp mà chủ nghĩa tư bản tiến hành không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có trong lòng nó như: Phá hủy một số lớn lực lượng sản xuất, chiếm thị trường mới và bóc lột thậm tệ hơn... Kết quả là các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội xảy ra và những cuộc khủng hoảng ấy ngày càng toàn diện hơn, ghê gớm hơn. Terry Eagleton, khẳng định: chủ nghĩa tư bản dù có lúc đạt được hiệu quả nhưng nó làm được điều đó bằng cái giá kinh hoàng của nhân loại. Ở trong lòng chủ nghĩa tư bản phát triển cao, những nhà nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử chiếm đoạt nô lệ, diệt chủng, bạo lực và bóc lột. Sự điều chỉnh và thích nghi của chủ nghĩa tư bản chính là minh chứng cho mâu thuẫn trong lòng nó, nó buộc phải điều chỉnh, thích nghi để tồn tại. Chủ nghĩa tư bản dùng các biện pháp cứu vãn như xây dựng nhà nước phúc lợi, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo... để điều hoà mâu thuẫn xã hội, giai cấp.

 Những mâu thuẫn này là quá trình tích lũy thêm các yếu tố để phủ định nó, chuyển sang phương thức sản xuất cao hơn - phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn phát triển của phương thức sản xuất và xã hội tư bản chủ nghĩa gần hai thế kỷ qua đã là minh chứng sinh động và sâu sắc cho tính đúng đắn, khoa học của lý luận triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay

V.I.Lê nin khẳng định, từ khi Mác trình bày Học thuyết của mình đến nay, tiến trình những sự biến trên toàn thế giới đã chứng thực “mỗi thời đại vĩ đại của lịch sử (từ cách mạng 1848 - Công xã Pari (1871); từ 1871- Cách mạng Nga (1905); từ Cách mạng Nga tới 1913), trong 3 thời đại nói trên đều đem lại cho chủ nghĩa ấy (chủ nghĩa Mác) những chứng thực mới và những thắng lợi mới. Những thời đại lịch sử sắp tới sẽ đem lại cho chủ nghĩa Mác, học thuyết của giai cấp vô sản, một thắng lợi còn to lớn hơn”[8].

Học thuyết Mác - Lê nin đã luận chứng một cách khách quan sự ra đời, phát triển và sụp đổ của hình thái kinh tê- xã hội tư bản chủ nghĩa và sự ra đời và thắng lợi của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là sự phát triển lịch sử- tự nhiên, là tất yếu của lịch sử tiến hóa nhân loại. Học thuyết Mác - Lênin chỉ ra tính chất giải phóng toàn diện, sâu sắc, triệt để của cách mạng xã hội chủ nghĩa: Giải phóng giai cấp; Giải phóng dân tộc; Giải phóng xã hội; Giải phóng con người; Giải phóng nhân loại; Mối quan hệ biện chứng giữa giải phóng giai cấp- dân tộc- xã hội- con người- nhân loại.. Học thuyết Mác - Lênin chỉ ra những quy luật kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, quân sự, an ninh, đối ngoại... của quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Đó là: Tính tất yếu sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân; Khả năng hoàn thành được sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân; Nội dung sứ mệnh lịch sử thế giới giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo, nòng cốt thực hiện cuộc cách mạng XHXN; Mối quan hệ lý luận Mác - Lênin và giai cấp vô sản. V.I.Lênin khẳng định, “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội, xã hội chủ nghĩa”[9]

Học thuyết Mác - Lê nin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã góp phần quan trọng vào việc giác ngộ cho giai cấp công nhân về địa vị kinh tế - xã hội và sứ mệnh lịch sử của nó trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là:

Góp phần đưa cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự phát lên tự giác. Trên cơ sở ý thức được địa vị kinh tế - xã hội và sứ mệnh lịch của mình, giai cấp vô sản ngày càng ý thức sâu sắc hơn về cuộc đấu tranh của mình trên mọi phương diện đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh ngày càng được xác lập đầy đủ về mục tiêu, chủ trương, biện pháp, chiến lược, sách lược đấu tranh với giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.

 Học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã nhanh chóng được truyền bá vào phong trào công nhân, cỗ vũ và trở thành cương lĩnh hành động chung của hàng trăm triệu công nhân trên thế giới. C.Mác đã khẳng định: “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản... là tác phẩm phổ biến hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh chung của hàng triệu công nhân từ Xi-bi-ri tới Ca-li-phoóc-ni”[10]. Hiện nay, tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”. Với những tuyên bố cách mạng, khoa học và thực tiễn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được dịch ra hơn 100 thứ tiếng, xuất bản lại hơn 1100 lần trên khắp thế giới. Học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lý luận dẫn đường thắng lợi cho các mạng tháng mười Nga thắng lợi, mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào đánh bại chủ nghĩa phát xít, đánh sập chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới của các nước đế quốc, mang lại độc lập, tự do cho nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đánh giá về tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Terry Eagleton cho rằng: Không nghi ngờ gì, đó là tác phẩm duy nhất có ảnh hưởng nhất được viết ra trong thế kỷ XIX. Hầu như không một nhà tư tưởng nào, không một nhà chính trị nào, nhà khoa học, nhà quân sự, nhà truyền giáo nào, mà lại làm thay đổi tiến trình lịch sử một cách rõ ràng như tác giả của Tuyên ngôn.

Ngày nay, lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, cùng với hệ thống quan điểm khác vẫn tiếp tục là ngọn đuốc soi đường, động viên, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động trong công cuộc chống áp bức, bóc lột, bất công, vươn tới hòa bình, tự do, dân chủ, hạnh phúc và phát triển; đấu tranh chống các biểu hiện sai trái trong thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp.

Theo một thống kê chưa đầy đủ, hiện nay có 136 đảng Cộng sản và Công nhân đang hoạt động ở 88 nước trên thế giới, gồm 70 đảng ở 34 nước châu Âu; 14 đảng ở 13 nước châu Á và châu Đại Dương; 17 đảng ở 15 nước Trung Đông và châu Phi; 35 đảng ở 26 nước châu Mỹ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở một số nước có nhiều đảng cộng sản cùng tồn tại (Nga hiện có 13 đảng; Anh có 3 đảng; Ấn Độ có 2 đảng…). Đặc biệt, hiện có 5 đảng cộng sản và công nhân đang trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên quy mô quốc gia, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Cu-ba, Đảng Lao động Triều Tiên và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học để nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực; chủ nghĩa tư bản hiện đại; cuộc cách mạng khoa học & công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa; các học thuyết xã hội học hiện đại và đấu tranh phê phán quan điểm sai trái.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học chỉ rõ những thành tựu và khuyết tật, nguyên nhân của khủng hoảng, sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu; nhận thức đúng đắn, sâu sắc về quá trình cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Lào...; phân tích, đánh giá xu hướng vận động theo con đường xã hội chủ nghĩa của một số nước trên thế giới; chỉ ra con đường, giải pháp thoát khỏi khủng hoảng và đưa ra dự báo một cách khoa học, thực tế về tương lai của chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học nhận thức khách quan, toàn diện, sâu sắc bản chất, quy luật chủ nghĩa tư bản hiện đại trong toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; khả năng điều chỉnh và thích ứng của nó với hoàn cảnh mới; những mâu thuẫn, khuyết tật, xu hướng vận động và quá trình phát triển đi tới phủ định biện chứng của nó để chuyển sang chủ nghĩa xã hội với những phương thức, phương pháp và thời điểm thích hợp.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học nhận thức đúng nguyên nhân, bản chất, quy luật; thành tựu, hạn chế cuộc cách mạng khoa học & công nghệ hiện đại; dự báo xu hướng phát triển cùng tác động, ảnh hưởng của nó đến con người và xã hội; tổng kết, chắt lọc những thành tựu khái quát lý luận, bổ sung và phát triển hệ thống các phạm trù, nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học nhận thức thức sâu sắc quá trình toàn cầu hóa với những nguyên nhân, bản chất, quy luật, mâu thuẫn, xung đột và xu hướng phát triển toàn cầu hóa; đánh giá khách quan mặt tích cực và những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa đối với con người và xã hội; khái quát lý luận, bổ sung và phát triển các phạm trù, nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học nghiên cứu, đánh giá khách quan các học thuyết xã hội hiện đại ở phương Đông và phương Tây, nhất là các học thuyết triết học, kinh tế chính trị học, xã hội học và quản lý phát triển xã hội; những vấn đề lý luận và thực tiễn mới của thời đại để tiếp thu tinh hoa văn hóa, trí tuệ của nhân loại, bổ sung và làm giàu thêm hệ giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học để đấu tranh không khoan nhượng với quan điểm sai trái, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, thúc đẩy khoa học và thực tiễn phát triển tiến đến văn minh, tiến bộ, nhân đạo, nhân văn.

Với tinh thần duy vật biện chứng, ai cũng có thể nhận ra được rằng, “Chủ nghĩa phẳng” hay một luận thuyết của chủ nghĩa tư bản đều muốn dỡ bỏ rào cản về chính trị để tiến tới chiếc “bánh” toàn cầu hóa. Các nhà “Chủ nghĩa phẳng” dù có lắt léo đến đâu thì cũng không thể lấp liếm được mưu đồ muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chống áp bức, bất công, đói nghèo trên thế giới.

Nhận thức, khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin trong thế giới đương đại đòi hỏi phải phù hợp trong bối cảnh mới.

Một là: Phải tiếp tục tuyên truyền phổ biến sâu rộng hơn nữa giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin trong đời sống đương đại. Những giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin phải được đưa vào chương trình giáo dục ở mọi cấp học với những nội dung và hình thức phù hợp. Đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin; bảo đảm ngắn gọn, xúc tích, thiết thực, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.

Hai là: Tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.... Đây chính là cơ sở, nền tảng vững chắc, là minh chứng sống động và thuyết phục nhất để nhận thức và khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin trong thế giới đương đại và bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học.

Ba là: Tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới nghiên cứu khoa học cơ bản và nghiên cứu ứng dụng về giá trị chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực hiện tốt việc tổng kết thực tiễn việc quán triệt, thực hiện lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về luận, thực tiễn trong xây dựng và BVTQ. Tổng kết lý luận về chủ nghĩa Mác- Lênin, nhất là tổng kết sự vận dụng lý luận và thực tiễn xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN để rút ra, bổ sung, phát triển các giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin trong thế giới đương đại.

Bốn là: Tiếp tục đẩy mạnh việc cụ thế hóa các giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin trong các lĩnh vực và hoạt động của đời sống xã hội. Giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin trong thế giới đương đại phải trở thành cơ sở lý luận, phương pháp luận, luận cứ khoa học để hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật trong công cuộc xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.

Năm là: Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phản các lại quan điểm sai trái, phản diện, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đưa cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái thành văn hóa trong đời sống. Tạo nhiều mô hình hiệu quả, cách làm mới mẻ để nâng cao chất lượng, hiệu quả, phản bác một cách thuyết phục các quan điểm sai trái, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong mọi tình huống.

Chủ nghĩa Mác - Lênin đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn với nhu cầu cấp bách là phải đổi mới để phát triển. Thách thức lớn nhất giờ đây là vượt thoát tư duy truyền thống, bên cạnh khẳng định vai trò nhà nước, cần có cách nhìn tích cực hơn đối với cộng đồng toàn cầu và khu vực, các tập hợp dân sự và các tổ chức phi chính phủ. Nhà nước hậu hiện đại có thể sẽ không bao biện hết thảy mọi chức năng, mà chỉ thâm nhập vào các sinh hoạt xã hội, thông qua hoạt động điều tiết. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin để bảo vệ, bổ sung, phát triển nó lên một trình độ mới có một tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa sống còn đối với những người cộng sản và các đảng cộng sản cách mạng chân chính trên thế giới, đối với tương lai của chủ nghĩa xã hội và đối với sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi thực dân đế quốc, giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội) đã và đang kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới. Việc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng là bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta và làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân là điều kiện cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất để Đảng và nhân dân ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới xây dựng và BVTQ xã hội chủ nghĩa./.