Tóm tắt: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại để phát triển đất nước hùng cường , thịnh vượng, đây là nội dung cốt lõi của Học thuyết hình thái kinh tế xã hội, hòn đá đá tảng của Học thuyết Mác – Lênin.
Ngày 22/12/2024 Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là một bước tiến mới thể hiện sự vận dụng sáng tạo và phát triển Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội, hòn đá đá tảng của Học thuyết Mác – Lênin.
Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội đã chỉ ra sự biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ quan hệ con người với tự nhiên, quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng hợp thành cách thức mà con người tiến hành trong sản xuất, hay còn gọi là phương thức sản xuất.
Lực lượng sản xuất là khái niệm biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nghĩa là, trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người sẽ dùng sức mạnh của mình để chinh phục giới tự nhiên. Do vậy, lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, trong đó con người-yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất. Vì thế V.I. Lênin viết: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 57-NQ/TW đã chỉ ra: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại”.
Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại Nghị quyết số 57-NQ/TW đã đưa ra những giải pháp như: Có chương trình tuyên truyền, giáo dục hiệu quả để nâng cao nhận thức, quyết tâm, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thực hiện chuyển đổi số trong cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp, tạo niềm tin, khí thế mới trong xã hội. Triển khai sâu rộng phong trào "học tập số", phổ cập, nâng cao kiến thức khoa học, công nghệ, kiến thức số trong cán bộ, công chức và Nhân dân; các phong trào khởi nghiệp, sáng tạo, cải tiến nâng cao hiệu quả công việc, năng suất lao động, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, phát huy trí tuệ Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, phát triển các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ công lập hoạt động hiệu quả; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, cán bộ, tài chính, chuyên môn; được sử dụng ngân sách nhà nước thuê chuyên gia, sử dụng tài sản hữu hình và trí tuệ để liên kết, hợp tác khoa học và công nghệ với các tổ chức, doanh nghiệp. Có cơ chế cho phép và khuyến khích các tổ chức nghiên cứu, nhà khoa học thành lập và tham gia điều hành doanh nghiệp dựa trên kết quả nghiên cứu; Phát triển hệ thống các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, tập trung cho công nghệ chiến lược. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ; Xây dựng một số trường, trung tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo. Có cơ chế đặc thù về hợp tác công tư trong đào tạo nhân lực công nghệ số. Xây dựng nền tảng giáo dục, đào tạo trực tuyến, mô hình giáo dục đại học số, nâng cao năng lực số trong xã hội; có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới mà có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan. Hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, ươm tạo công nghệ và chuyển đổi số...
Quan hệ sản xuất, là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, bao gồm: các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất; các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Mỗi một quan hệ này được xem là mỗi mặt trong quá trình sản xuất, đồng thời mang tính tất yếu và không phụ thuộc vào bất cứ ý muốn chủ quan nào, C.Mác đã viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với tự nhiên, tức là sản xuất"
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội, là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ và biểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống ấy có vai trò riêng biệt khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội, cũng như tới toàn bộ tiến trình lịch sử.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tế-xã hội, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm, luôn giữ vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Chính quan hệ sở hữu đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội, quyết định cách thức trong tổ chức quản lý quá trình sản xuất, quyết định phương thức phân phối sản phẩm. Cũng cần nhận thức rằng, mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu, thế nhưng các quan hệ về mặt tổ chức-quản lý, các quan hệ phân phối là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của sự vận động đời sống xã hội-quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự biến đổi của sản xuất xã hội, xét cho cùng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, mà trước hết là công cụ lao động. Theo đó, khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động được gọi là trình độ của lực lượng sản xuất; còn tính chất lực lượng sản xuất- khái niệm dùng để phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Trong đó, trình độ lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; kinh nghiệm và kỹ năng lao động; trình độ phân công lao động. Còn tính chất lực lượng sản xuất tương ứng với trình độ lực lượng sản xuất và được thể hiện ở tính chất cá nhân; tính chất xã hội hóa.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất khi mà các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi lực lượng sản xuất phát triển chuyển sang một trình độ mới với tính chất xã hội hóa ở mức cao hơn, lúc đó tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất “trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất”, tất yếu dẫn đến việc xã hội phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là nội dung quy luật về sư phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Quy luật này trở thành quy luật phổ biến, cơ bản nhất tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Để hình thành và phát triển quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp Nghị quyết số 57-NQ/TW đã đưa ra những giải pháp như: Nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế… để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển nguồn nhân lực; cải cách phương thức quản lý, triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phù hợp với từng loại hình nghiên cứu; cải cách cơ chế quản lý tài chính trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính; giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; Thống nhất, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo. Đầu tư, nâng cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cùng các cơ sở nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trọng điểm quốc gia. Sáp nhập, giải thể các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động không hiệu quả; Ban hành cơ chế đặc thù thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có trình độ cao về Việt Nam làm việc, sinh sống. Có cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch, sở hữu nhà, đất, thu nhập, môi trường làm việc nhằm thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các "tổng công trình sư" trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực. Xây dựng, kết nối và phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế; Ban hành Chương trình phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược; Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược (ưu tiên các lĩnh vực quốc phòng, không gian, năng lượng, môi trường, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo, vật liệu tiên tiến, bán dẫn, công nghệ lượng tử, robot và tự động hoá…); có cơ chế thử nghiệm chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ chiến lược…
Để đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Đảng chủ trương đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng là một chủ trương rất đúng đắn và là hỏi cấp bách của Dân tộc hiện nay. Đây được xem như một luồng gió mới nhằm khơi dậy, lôi cuốn, huy động mọi khả năng phát triển, mọi khả năng trí tuệ, mọi khả năng sáng tạo, cống hiến của toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta cho sự phát triển của khoa học, công nghệ nhằm tạo ra bước đột phá cho sự phát triển của đất nước, đưa đất nước ta vươn mình phát triển trong những năm tới. Nghị quyết 57 này đã có nhiều điểm mới sáng tạo, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân tích cực chủ động tìm tòi nghiên cứu để có những sản phẩm khoa học, công nghệ tốt nhất cho sự phát triển hùng cường của Dân tộc. Đây cũng chính là bước tiến mới, sự phát triển sáng tạo Học thuyết Mác – Lênin về Hình thái kinh tế xã hội./.
Tin, bài và ảnh: Đại tá, ThS Đoàn Văn Thịnh
Khoa Lý luận Mác – Lênin/ Học viện Quốc phòng