Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tri thức số đang trở thành nguồn lực chiến lược của mọi quốc gia. Công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây và mạng lưới vạn vật kết nối không chỉ thay đổi diện mạo kinh tế, mà còn định hình lại phương thức tiến hành chiến tranh và xây dựng quốc phòng. Đối với Việt Nam, việc khai thác tri thức số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình hiện đại hóa quân đội, nâng cao năng lực nghiên cứu - dự báo, mở rộng tầm nhìn khoa học quân sự và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Từ lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn coi trí tuệ là cội nguồn của sức mạnh quân sự. Từ chiến lược “dĩ đoản chế trường” của Ngô Quyền, “vườn không nhà trống” của Trần Hưng Đạo đến chiến thắng Điện Biên Phủ, dân tộc ta luôn biết vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự, lấy mưu trí làm vũ khí. Trong thời đại số, truyền thống ấy cần được phát huy ở tầm cao mới - đó là sức mạnh của tri thức số hóa. Nếu trước đây “biết địch biết ta” nhờ kinh nghiệm và trinh sát, thì nay sức mạnh ấy đến từ khả năng phân tích dữ liệu, mô phỏng chiến trường, dự báo chiến lược và ra quyết định dựa trên nền tảng tri thức số.
Tri thức số trong lĩnh vực quân sự bao gồm toàn bộ hệ thống dữ liệu, thông tin, kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu được số hóa, lưu trữ và xử lý bằng công nghệ hiện đại. Việc khai thác hiệu quả tri thức số giúp quân đội nắm chắc tình hình, lựa chọn phương án tác chiến tối ưu, nâng cao hiệu quả huấn luyện và đào tạo, đồng thời hỗ trợ nghiên cứu khoa học - công nghệ quốc phòng. Các công nghệ như mô phỏng tác chiến, thực tế ảo, chiến trường số hay trí tuệ nhân tạo trong chỉ huy đang trở thành xu hướng của các quân đội tiên tiến trên thế giới. Điều đó cho thấy, tri thức số chính là “vũ khí mềm” của thời đại mới.
Nhận thức được điều đó, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta đã ban hành nhiều chủ trương, chiến lược nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong quốc phòng. Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng coi phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Nhiều học viện, nhà trường trong quân đội đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử, triển khai đào tạo trực tuyến và nghiên cứu trí tuệ nhân tạo phục vụ huấn luyện, tác chiến. Trong đó, Hệ Sau đại học - Học viện Quốc phòng luôn tiên phong trong hoạt động khai thác tri thức số; vận dụng linh hoạt, sáng tạo công nghệ số trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.

Thư viện Học viện Quốc phòng, nơi tiên phong trong ứng dụng công nghệ số xây dựng dữ liệu học tập nghiên cứu
Thực tế cho thấy, Học viện Quốc phòng đã chủ động ứng dụng công nghệ số trong quản lý đào tạo, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu học tập, mô phỏng diễn tập chiến dịch, chiến lược. Cán bộ và học viên Hệ Sau đại học tích cực khai thác tri thức số trong nghiên cứu khoa học, cập nhật tình hình thế giới, khu vực, xu hướng chiến tranh hiện đại và lý luận nghệ thuật quân sự. Nhiều đề tài, luận văn cao học và luận án tiến sĩ đã ứng dụng phương pháp phân tích dữ liệu và mô hình hóa, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của Học viện. Đây chính là minh chứng cho việc kết hợp hiệu quả giữa tri thức truyền thống và tri thức số, giữa lý luận và thực tiễn trong đào tạo cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược.
Tuy nhiên, việc khai thác tri thức số trong Học viện Quốc phòng nói chung và Hệ Sau đại học nói riêng vẫn còn những hạn chế. Hệ thống dữ liệu còn phân tán, thiếu liên thông; hạ tầng công nghệ thông tin ở một số cơ sở đào tạo chưa đồng bộ; nguồn nhân lực công nghệ cao còn thiếu. Bên cạnh đó, công tác bảo mật thông tin và an ninh mạng cần được tăng cường hơn nữa, nhất là trong môi trường học tập và nghiên cứu trực tuyến. Những vấn đề này đòi hỏi sự đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, cùng với đổi mới tư duy và phương pháp đào tạo theo hướng số hóa, mở, liên thông và thực tiễn.
Để phát huy hơn nữa hiệu quả của tri thức số, trước hết cần xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, bảo mật và hiện đại, hình thành trung tâm dữ liệu dùng chung cho các học viện, nhà trường quân đội. Cùng với đó, cần phát triển nguồn nhân lực số chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ, giảng viên, nghiên cứu sinh, học viên có khả năng ứng dụng công nghệ và phân tích dữ liệu trong nghiên. Học viện Quốc phòng cần tiếp tục phát huy vai trò trung tâm đào tạo, nghiên cứu đầu ngành, dẫn dắt việc xây dựng “ngân hàng tri thức quốc phòng số” phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu và tham mưu chiến lược. Song song với đó, cần đẩy mạnh văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích cán bộ, học viên chủ động tiếp cận công nghệ mới, khai thác tri thức mở, rèn luyện tư duy số và khả năng phản biện khoa học.

Học viên Hệ Sau đại học tích cực khai thác tri thức số trong nghiên cứu khoa học
Khai thác tri thức số không chỉ là xu thế, mà là yêu cầu tất yếu trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng hiện đại và hội nhập quốc tế. Đây là quá trình chuyển đổi sâu sắc từ mô hình quản lý truyền thống sang quản trị thông minh, từ chiến tranh vật lý sang chiến tranh tri thức, từ nền khoa học quân sự khép kín sang nền khoa học quân sự mở. Trong tiến trình ấy, Học viện Quốc phòng giữ vai trò trung tâm đầu não về nghiên cứu chiến lược, đào tạo cán bộ cấp cao và phát triển tư duy khoa học quân sự hiện đại của toàn quân; là hạt nhân kết nối tri thức số giữa các học viện, nhà trường quân đội, góp phần hình thành mạng lưới nghiên cứu, chia sẻ dữ liệu và đổi mới sáng tạo trong toàn quân.
Trong kỷ nguyên số, mỗi cán bộ, học viên, giảng viên, nhà khoa học của Học viện Quốc phòng cần trở thành “chiến sĩ tri thức”, tiên phong trong tiếp cận công nghệ mới, khai thác dữ liệu và vận dụng tri thức số vào thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Khi tri thức trở thành sức mạnh, dữ liệu trở thành vũ khí và sáng tạo trở thành bản lĩnh, Học viện Quốc phòng sẽ thực sự là ngọn cờ đầu trong mở rộng tầm nhìn khoa học quân sự hiện đại Việt Nam, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Tin, bài và ảnh: Trung tá Nguyễn Đức Tâm
Nghiên cứu sinh khóa 32 / Hệ Sau đại học/ Học viện Quốc phòng