Đại hội lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Đảng ta, dân tộc ta, đất nước ta. Lần đầu tiên trong chủ đề của Đại hội và các báo cáo đề cập đến khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đây là một điểm rất mới và là một điểm nhấn quan trọng về sức mạnh nội sinh và phương thức phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Đại hội nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”1.

Công tác đảng, Công tác chính trị (CTĐ, CTCT) với tư cách là một bộ phận rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng với Quân đội, là công tác xây dựng Đảng, xây dựng Quân đội về chính trị, tư tưởng và tổ chức, là công tác vận động quần chúng của Đảng trong Quân đội, cần phát huy vai trò quan trọng trong tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức cho bộ đội và nhân dân thấm nhuần quan điểm của Đảng về khát vọng phát triển đất nước, biến nhận thức thành sức mạnh, hành động cách mạng sâu rộng của quần chúng để thực hiện thắng lợi chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra. Theo đó, CTĐ, CTCT cần làm tốt một số nội dung sau:

Một là, làm cho bộ đội và Nhân dân hiểu rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của khát vọng phát triển đất nước.

Khát vọng là một trạng thái tinh thần, phản ánh sự ước ao, mong muốn với một sự thôi thúc mạnh mẽ. Khát vọng phát triểncủa một dân tộc là sự cộng hưởng những khát vọng vươn lên của cộng đồng, của con người cùng quốc gia - dân tộc, tạo thành nguồn năng lượng nội sinh to lớn và sức mạnh vô địch. Đó chính là động lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai. Trong lịch sử thế giới, sự phát triển kỳ diệu của các quốc gia hùng mạnh đều bắt nguồn chính từ những khát vọng vươn lên trở thành một dân tộc hùng cường, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Đối với Việt Nam, một dân tộc có truyền thống đoàn kết, văn hiến, anh hùng, khát vọng phát triển đất nước thật sự là một sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hiện nay, khát vọng phát triển dân tộc giàu mạnh, hùng cường là một động lực thúc đẩy dân tộc ta tiến lên, khắc phục đói nghèo, lạc hậu, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Trong lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, sức mạnh của tinh thần, của ý chí, nhất là ý chí của cả một dân tộc giữ vai trò hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định.

Hai là, làm cho bộ đội và Nhân dân hiểu rõ sức mạnh truyền thống và khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam.

Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta luôn có một khát vọng được sống độc lập, tự do, có chủ quyền. Dù luôn phải đương đầu với các cuộc chiến tranh hung bạo của kẻ thù, chúng ta vẫn không nguôi khát vọng hòa bình, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vượt ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu, phát triển đất nước phồn vinh, có vị thế cao hơn. Thời trung đại, Việt Nam đánh thắng tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập dân tộc, bắt nguồn từ khát vọng về độc lập, chủ quyền quốc gia.       

Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đập tan ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến; đánh thắng các thế lực xâm lược hùng mạnh, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiến công oanh liệt đó khởi nguồn từ khát vọng mãnh liệt của dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành chân lý: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”2; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”3; Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”4. Sau khi đất nước thống nhất, với khát vọng chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình.

Ba là, làm cho bộ đội và Nhân dân hiểu rõ cơ đồ, tiềm lực đất nước - nền tảng để thực hiện khát vọng phát triển.

Khát vọng phát triển đất nước bắt nguồn từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước sau 35 năm đổi mới; vào bản lĩnh và những kinh nghiệm phong phú mà Đảng, nhân dân ta đã kiểm nghiệm, đúc kết trong thực tiễn; phân tích, dự báo kỹ lưỡng những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức để nhạy bén chớp thời cơ, chủ động ứng phó với nguy cơ, chuyển hóa nguy cơ thành vận hội phát triển với phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn.

Từ một quốc gia kém phát triển, ảnh hưởng nặng nề bởi nhiều năm chiến tranh và bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Từ một nước nghèo và lạc hậu, Việt Nam đã tích cực hội nhập quốc tế, vươn lên trở thành hình mẫu phát triển kinh tế - xã hội, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế được thể hiện rõ nhất là chúng ta được bầu vào vị trí ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN và một loạt các vị trí trên các diễn đàn đa phương. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”5.

Bốn là, làm cho bộ đội và Nhân dân hiểu rõ mục tiêu, chỉ tiêu của khát vọng phát triển đất nước.

Kế thừa, hoàn thiện những mục tiêu đã được xác định từ những đại hội Đảng trước đây; căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của đất nước và xu thế phát triển của thế giới, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định các mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2045 trở thành một đất nước phát triển, nghĩa là bình quân đầu người đạt 15.000 USD trở lên. Không chỉ dừng lại ở đó, khát vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là xây dựng, phát triển quốc gia hùng cường, thịnh vượng, nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, sánh vai ngang hàng, bình đẳng với các cường quốc trên thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.

Đối với Quân đội, Đảng ta chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh. Phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đây là chủ trương lớn, yêu cầu cao, có tính đột phá đòi hỏi sự nỗ lực của toàn quân, sự ủng hộ của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Năm là, làm cho bộ đội và Nhân dân hiểu rõ nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện khát vọng phát triển đất nước.

Để thực hiện khát vọng phát triển đất nước nghiên cứu xây dựng và phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, những giá trị chuẩn mực, sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Đồng thời, phát huy đồng bộ hệ động lực phát triển: dân chủ xã hội chủ nghĩa; đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo...

Trong thời gian tới, cần tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, đó là: Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Để phát huy vai trò của CTĐ, CTCT trong Quân đội cần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:

Một là, tổ chức nghiên cứu, học tập và tuyên truyền đường lối, quan điểm, tư tưởng Đại hội XIII của Đảng, nhất là khát vọng phát triển đất nước cho các đối tượng trong toàn quân. Xây dựng và thực hiện các chương trình, nội dung giáo dục chính trị cho các đối tượng trong toàn quân và nội dung giáo dục khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà trường quân đội theo hướng khơi dậy khát vọng phát triển đất nước. Tiến hành công tác thông tin, tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản, in, phát hành trong Quân đội để cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ toàn quân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, cùng toàn toàn Đảng, toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đấu tranh trên lĩnh vực lý luận chính trị, tư tưởng, văn hóa, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, bảo đảm toàn quân hoạt động đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Điều lệnh, Điều lệ, quy định của Bộ Quốc phòng.

Hai là, tổ chức triển khai phong trào Thi đua Quyết thắng, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Kết hợp thi đua thường xuyên với thi đua theo đợt nhằm duy trì phong trào thi đua phát triển liên tục và tạo ra những đỉnh cao của phong trào thi đua trong những thời gian nhất định, biến khát vọng phát triển đất nước, khát vọng xây dựng quân đội hùng mạnh thành hành động cách mạng cụ thể. Các cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ để phát động các phong trào thi đua chuyên đề, cao điểm hoặc đột kích trong một thời gian ngắn nhằm thúc đẩy khí thế thi đua chung của đơn vị. Tổ chức tốt việc sơ, tổng kết, bình công, khen thưởng những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến có thành tích trong phong trào thi đua.

Ba là, coi trọng công tác xây dựng Đảng, bởi “xây dựng, chỉnh đốn Đảng là bài học then chốt, sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩ”6. Xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội, đảng bộ quân sự địa phương, Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng cao, tiền phong gương mẫu về mọi mặt, gắn bó mật thiết với quần chúng. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; phát huy hiệu lực chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong quân đội. Có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng với các tỉnh ủy, thành ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh ở từng địa bàn, từng lĩnh vực cụ thể; không vì phát triển kinh tế thuần túy mà xem nhẹ quốc phòng an ninh.

Bốn là, quán triệt quan điểm, nguyên tắc, chính sách của Đảng về công tác cán bộ, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý và thực hiện chính sách cán bộ theo phân cấp; kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì với xây dựng đội ngũ cấp ủy viên; đảm bảo đội ngũ cán bộ trong Quân đội vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, lối sống, có năng lực tốt, phương pháp tác phong công tác phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa XII). Tăng cường kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ trong thực hiện nhiệm vụ đồng thời có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung để thực hiện khát vọng phát triển đất nước.

Năm là, làm tốt công tác dân vận; tham gia thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương vững mạnh, củng cố và tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân dân; cổ vũ, động viên nhân dân tích cực phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Phối hợp với các cơ quan chức năng trong và ngoài quân đội nghiên cứu đề xuất với Đảng và Nhà nước ban hành các chính sách đối với Quân đội, dân quân tự vệ, hậu phương Quân đội; quán triệt và tổ chức thực hiện các chính sách đó trong toàn quân. Quán triệt, chỉ đạo, hướng dẫn toàn quân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh thời đại để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 110.

2, 4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 534, 280.

3. Sđd, tập 15, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 131.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.104.

6. GS, TS Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Thông tin Báo cáo viên, Số 6 - 2021, tr. 7.